Thực đơn
Chất đối kháng hormone giải phóng gonadotropin Sử dụng trong y khoaTestosterone thúc đẩy sự phát triển của nhiều khối u tuyến tiền liệt và do đó làm giảm testosterone tuần hoàn xuống mức rất thấp (thiến) thường là mục tiêu điều trị cho nam giới mắc ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn cuối. Thuốc đối kháng GnRH được sử dụng để ức chế nhanh testosterone mà không làm tăng nồng độ testosterone như khi điều trị bằng thuốc chủ vận GnRH.[1] Ở những bệnh nhân mắc bệnh giai đoạn cuối, sự gia tăng testosterone này có thể dẫn đến bùng phát khối u và có thể dẫn đến một loạt các triệu chứng lâm sàng như đau xương, tắc niệu đạo và chèn ép tủy sống. Các cơ quan dược phẩm đã đưa ra cảnh báo về hiện tượng này trong tờ hướng dẫn sử dụng của thuốc chủ vận GnRH. Vì sự gia tăng testosterone không xảy ra với thuốc đối kháng GnRH, nên bệnh nhân không cần phải dùng thuốc kháng androgen để tránh hiệu ứng bùng phát trong quá trình điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Các chất chủ vận GnRH cũng gây ra sự gia tăng nồng độ testosterone sau mỗi lần tiêm lặp lại thuốc - một hiện tượng không xảy ra với thuốc đối kháng GnRH.
Việc giảm nồng độ testosterone khi điều trị bằng chất đối kháng GnRH sẽ làm giảm kích thước của khối u tuyến tiền liệt. Điều này dẫn đến việc giảm nồng độ kháng nguyên đặc hiệu của tuyến tiền liệt (PSA) trong máu của bệnh nhân và do đó, đo nồng độ PSA là một cách để theo dõi xem bệnh nhân bị ung thư tuyến tiền liệt đáp ứng như thế nào với điều trị. Thuốc đối kháng GnRH có tác dụng ngay lập tức dẫn đến ức chế testosterone nhanh và mạnh, do đó đặc biệt có giá trị trong điều trị bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt cần kiểm soát bệnh nhanh chóng.
Thuốc abarelix đối kháng GnRH đã bị rút khỏi thị trường Hoa Kỳ vào năm 2005 và hiện chỉ được bán ở thị trường Đức để sử dụng cho bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt có triệu chứng. Degarelix là một chất đối kháng GnRH được chấp thuận sử dụng cho những bệnh nhân mắc ung thư tuyến tiền liệt tiến triển nhạy cảm với hormone ở Châu Âu và Hoa Kỳ.[2]
Thuốc đối kháng GnRH cũng được sử dụng trong thời gian ngắn để ngăn ngừa tăng LH sớm và rụng trứng nội sinh ở những bệnh nhân đang trải qua quá trình kích thích buồng trứng với FSH để chuẩn bị cho thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).[3][4][5] Thông thường, chúng được sử dụng ở giai đoạn nang trứng giữa trong các chu kỳ kích thích sau khi sử dụng gonadotropin và trước khi sử dụng hCG - được dùng nhằm kích thích rụng trứng. Phác đồ này có thể có lợi ở những phụ nữ được cho là những người phản ứng quá mức, và có thể những người được cho là những người phản ứng kém với quá kích buồng trứng.[6] Có lẽ có rất ít hoặc không có sự khác biệt giữa phác đồ đối kháng GnRH và phác đồ chủ vận GnRH về khả năng sinh hoặc nguy cơ sẩy thai nhưng thuốc đối kháng GnRH có thể làm giảm nguy cơ mắc hội chứng quá kích buồng trứng.[7] Các thuốc đối kháng GnRH hiện được cấp phép sử dụng trong điều trị hiếm muộn là cetrorelix và ganirelix.
Elagolix được chỉ định để điều trị chứng đau do lạc nội mạc tử cung vừa đến nặng và relugolix được chỉ định để điều trị u xơ tử cung.
Các chất đối kháng GnRH đang được nghiên cứu để điều trị ung thư vú nhạy cảm với hormone ở phụ nữ.[8][9] Còn ở nam giới, chúng đang được nghiên cứu trong điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt[10] và cũng là các thuốc tránh thai tiềm năng.[11] Các chất đối kháng GnRH cũng được sử dụng làm thuốc ngăn dậy thì ở thanh niên chuyển giới và ức chế nồng độ hormone sinh dục ở thanh thiếu niên và người trưởng thành chuyển giới.[12][13][14][15]
Tên | Biệt dược/Tên mã | Chỉ định | Loại | Đường dùng | Năm ra mắt/Trạng thái* | Lượt truy cập |
---|---|---|---|---|---|---|
Abarelix | Plenaxis | Ung thư tuyến tiền liệt | Peptit | IM | 2003 | 116.000 |
Cetrorelix | Cetrotide | Vô sinh nữ (hỗ trợ sinh sản) | Peptit | SC | 2000 | 134.000 |
Degarelix | Firmagon | Ung thư tuyến tiền liệt | Peptit | SC | 2008 | 291.000 |
Elagolix | Orilissa | Lạc nội mạc tử cung; U xơ tử cung | Không peptit | Đường uống | 2018 | 126.000 |
Ganirelix | Orgalutran | Vô sinh nữ (hỗ trợ sinh sản) | Peptit | SC | 2000 | 134.000 |
Linzagolix | KLH-2109; OBE-2109 | Lạc nội mạc tử cung; U xơ tử cung | Không peptit | Đường uống | Giai đoạn III [16] | 9,730 |
Relugolix | Relumina | U xơ tử cung, ung thư tuyến tiền liệt | Không peptit | Đường uống | 2019 | 44,900 |
Ghi chú: Năm ra mắt/trạng thái = Năm ra mắt hoặc trạng thái phát triển (tình đến tháng 2 năm 2018). Lượt truy cập = Lượt truy cập Google Tìm kiếm (tính đến tháng 2 năm 2018). |
Các chất đối kháng GnRH được chấp thuận hiện nay bao gồm các phân tử peptit abarelix, cetrorelix, degarelix và ganirelix và các hợp chất phân tử nhỏ elagolix và relugolix. Thuốc đối kháng GnRH tiêm dưới da (cetrorelix, degarelix, ganirelix), tiêm bắp (abarelix), hoặc uống (elagolix, relugolix).
Một chất đối kháng GnRH không peptit đường uống đang được phát triển là linzagolix.[17]
Thực đơn
Chất đối kháng hormone giải phóng gonadotropin Sử dụng trong y khoaLiên quan
Chất Chất rắn Chất độc da cam Chất béo Chất dẻo Chất bán dẫn Chất khí Chất thải phóng xạ Chất lỏng Chất thải thực phẩmTài liệu tham khảo
WikiPedia: Chất đối kháng hormone giải phóng gonadotropin http://www.degarelix.com/ http://www.ebfertility.com/ http://www.fertilityauthority.com/ http://www.fertilitylifelines.com/ http://adisinsight.springer.com/drugs/800032710 http://nbn-resolving.de/urn:nbn:de:bsz:352-opus-10... //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/19939192 //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/24077980 //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/25581052 //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/27126581